Trung Đoàn 43 BB là một trong những đơn vị kỳ cựu
của QLVNCH, thoát thay từ Trung Đoàn 404 bộ binh của Sư Đoàn 5 Khinh
chiến. Năm 1974, Tiểu Đoàn 2/43 và Tiểu Đoàn 1/52 của Sư Đoàn 18 BB
được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương trước Quân Đội với
thành tích hạ nhiều tăng 54 và chiến xa PT 76 của Bắc quân tại Bến
Cát (Bình Dương). 2 xe tăng T54 và 76 được lái về làm kiểng trong
khuôn viên của Dinh Độc Lập cho đến ngày đổi đời 1-5-75 mới được
dời.
Riêng Tiểu Đoàn 1/43 lại là đơn vị chủ lực quân
đầu tiên đến trấn đóng tại tỉnh Long Khánh từ đầu năm 1964 khi thành
phố Xuân Lộc lúc đó còn nhỏ xíu, buồn hiu với bao nhiêu nỗi bực dọc
mùa nắng thì bụi bay đỏ người, trái lại, mùa mưa sình lầy trơn trợt.
Muổi mòng, đĩa vắt không thiếu, nhưng đổi lại dân chúng địa phương
hiền lành, hiếu khách, đặc biệt các em nữ sinh miền đất đỏ đồn điền
rất đỏm dáng và thích lính miền xa.
Năm 1966, Sư Đoàn 10 được thành lập với 3 Trung
Đoàn nguyên biệt lập. Trung Đoàn 43 BB, Trung Đoàn 52 và Trung Đoàn
48. Tướng Lữ Lan, ông Tướng có tiếng là tham nhũng nhất nước, được
làm Tư Lệnh Sư Đoàn. Có lẽ vì mang số 10 bù, xui xẻo nên cuối năm
1966 Tiểu Đoàn 1/43 đã gần như bị tan hàng khi kịch chiến với 2
Trung Đoàn CS Bắc việt tại xã Võ Xu quận Võ Đắc (Bình Tuy) nên phải
trở về tái trang bị và huấn luyện tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn
(Dục Mỹ). Sau đó Sư Đoàn 10 được đổi danh hiệu là 18 BB. Vị Tư Lệnh
cuối cùng là Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, là vị Tướng đã cùng với 2 phụ
tá: Đại tá Lê Xuân Mai (Tư Lệnh phó Sư Đoàn 18) và Đại tá BĐQ Phạm
Văn Phúc, chỉ huy phòng tuyến thép Xuân Lộc từ rạng sáng 8-4 cho đến
khi được lệnh rút quân ngày 21-4.
Cuộc chiến đấu thần thánh của những người lính
miền đất đỏ Long Khánh trong lúc đất nước sắp sụp đổ thật ra cũng
chỉ là cơn phẫn nộ cuối cùng của một quân đội, trên phần đất còn lại
của người Việt Nam, cố níu kéo, gìn giử để dân tộc có chỗ cắm dùi,
nhưng cuối cũng những người lính trên đã thất bại não nề vì bị cấp
lãnh đạo tối cao bán đứng, đồng minh phản bội, trí thức toa rập kẻ
thù, trù dập, đuổi xô và đâm sau lưng chí mạng. Thật não nùng thay.
"Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao năm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế, bóng tà dương...
(Thơ Nguyễn Bá Trạc)
3-4-74, Thượng viện Mỹ biểu quyết cắt giảm viện
trợ của Nam Việt Nam.
11-4-74, Bắc việt tràn ngập trại Tống Lê Chân (Bình Long) do Tiểu
đoàn 92 BĐQ của Trung tá Lê Văn Ngôn, khóa 25 sĩ quan Đà Lạt trấn
giữ trong 510 ngày bị vây hãm.
7-8-74, Quận Thường Đức, tỉnh Quảng Nam thất thủ.
9-8-74, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ Watergate, mang theo xuống mồ
những lời hứa hẹn với Tổng Thống Thiệu về viện trợ, can thiệp
v.v..., khi Ford lên thay thế đã không đếm xỉa gì tới.
Đầu năm 1975, Binh đoàn 301 Bắc việt gồm các Sư
đoàn 3, 7 với tăng, đại pháo tấn công Phước Long do Sư đoàn 5 BB và
BĐQ trấn giữ. Phước Long lọt vào tay Bắc việt ngày 6-1-75 vì không
có quân tiếp viện. Trước sự vi phạm trắng trợn và láu cá của CS, Hoa
Kỳ chỉ phản ứng lấy lệ, bằng chứng là Ford không đề cập gì đến tình
trạng nguy khốn của Nam Việt Nam trong bài diễn văn nhậm chức trước
Quốc hội Mỹ ngày 5-1-75, đã vậy, theo B. Palmer Jr. trong "The 25
years war American's Military Role in Vietnam" xuất bản năm 1984,
thì ít ngày sau Ford lại họp báo để dứt khoát là Mỹ chấm dứt can
thiệp vào VN. Đây là lý do bằng vàng ròng, khiến CS Bắc việt hồ hởi
tổng tấn công cưỡng chiếm Miền Nam.
Rồi chiến dịch 275 mở màn, 2 giờ sáng 10-3-75,
Bắc việt tấn công thủ phủ Ban Mê Thuộc của Cao nguyên Trung phần, và
thành phố đã mất sau 2 ngày giao tranh đẩm máu, ác liệt giữa Cộng
quân và đơn vị trú phòng gồm có Trung đoàn 53 Sư đoàn 23 BB và Tiểu
đoàn 21 BĐQ, Địa phương quân và các đơn vị yểm trợ của Sư đoàn 23
BB. Thù trong, giặc ngoài, Mỹ bỏ rơi, trí thức a dua đâm sau lưng
lính, khiến Tổng Thống Thiệu mất trí, điên loạn đề ra chiến lược
"đầu bé đít to", ra lệnh bỏ Cao nguyên, bỏ dân chúng, bỏ Địa Phương
Quân, Nghĩa Quân cho CS, rút tăng, pháo, chủ lực quân về bảo vệ Duy
ên hải bằng con đường máu Liên Tỉnh Lộ 7 Phú Bổn - Phú Yên ngày
14-3-75, được chỉ huy bởi bọn Tướng, Tá bất tài, bất lực, tham
quyền, sợ chết. Rồi kế đó lại bỏ Quảng Trị, Huế, ngày 20-3-75, khiến
cho bao nhiêu người dân vô tội chết uổng trong khi di tản, làm hủy
diệt tất cả các lực lượng Pháo binh, Chiến xa M 48, 41, M113 của
Quân đoàn I, II. Ba (3) Sư đoàn 1, 3, 23 tan hàng, 200 máy bay các
loại bị bỏ lại tại các phi trường Huế, Đà Nẳng, Pleiku, cộng với 100
chiến xa, 900 đại bác không được phá hỏng. Các Sư đoàn 2, 22, TQLC,
Sư đoàn 1, 2, 6 Không quân, 1 Lữ đoàn Dù, 11 Liên đoàn BĐQ, các Liên
đoàn Công binh, Truyền tin, Tiếp vận v.v... bị tổn thất quá nửa quân
số. Tổng Thống Thiệu chỉ trong 1 phút quyết định tại Cam Ranh trước
các Tướng Viên, Khiêm, Quang, Phú, đã làm mất 2/3 lãnh thổ và làm
tan rã 1/2 lực lượng VNCH.
II MẶT TRẬN XUÂN LỘC:
Chiến trường Long Khánh gồm cả 3 mặt trận chính:
Mặt trận ngã ba Dầu Giây di Trung đoàn 52 và 1 Thiết đoàn Chiến xa
trấn giữ. Mặt trận núi Chứa Chan, Gia Rai do Liên đoàn 7 BĐQ và
Trung đoàn 48 BB. Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43 BB và các Tiểu
đoàn ĐPQ bảo vệ. BTL hành quân của Tướng Lê Minh Đảo được đặt tại
Quận đường Xuân Lộc, mé ngã ba Tân Phong - Long Giao được bảo vệ bởi
các đơn vị trừ bị của Sư đoàn, Pháo binh và 1 Thiết đoàn Chiến xa.
Thế rồi vào lúc 5 giờ rưỡi sáng ngày 9-4, khi vạn
vật bắt đầu bằng một ngày mới, chim chóc rời tổ kiếm ăn, dân chúng
dọn hàng ra chợ, các tín đồ Thiên Chúa Giáo đi lễ sớm tại các nhà
thờ, các loa phóng thanh của Ty Thông tin Xuân Lộc mở đầu bằng các
bài hát trữ tình thương lính... thì cũng là lúc Bắc việt nã hàng
ngàn quả pháo đủ loại vào thành phố, đa số rớt vào chợ, nhà thờ và
nhà của dân chúng, khiến cho người dân vô tội chết và bị thương như
rạ vì trận pháo kích kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ với hơn 300 trái
đạn liên tục không hết, nên dân chúng không biết chạy đâu để trốn
tránh tử thần.
8 giờ Bắc việt tấn công vào thành phố nhưng bị
chận lại bởi Trung đoàn 43 BB và Tiểu đoàn 3/4 ĐPQ Long Khánh nên
phải chém vè sau khi bỏ lại tại chỗ 100 tử thi. Nhiều T54, PT76 bị
hạ khắp nơi bời các hỏa tiễn M72 và các phản lực cơ A37, F5 của
Không quân.
Ngày 10-4, Cộng quân trở lại tấn công Xuân Lộc
với 2 Sư đoàn 6, 2 và các Trung đoàn chiến xa, khắp các mặt trận
Đông, Tây, Nam, Bắc thành phố, từ tòa Thị chính đến sân bay, nơi nào
Cộng quân cũng sử dụng quân số cấp Trung đoàn. Cuộc chiến kéo dài
trong nhiều ngày, cả hai phía dành giựt từng ngôi nhà, phòng tuyến
để sống. Không quân VN đã yểm trợ tích cực và hữu hiệu cho các đơn
vị dưới đất bằng các phản lực cơ tối tân F5E, góp phần tiêu diệt số
lớn Cộng quân. Trung đoàn 43 BB mặc dù đã bị Cộng quân cắt ra từng
đơn vị nhỏ, nhưng vẫn tiếp tục chống trả mãnh liệt, gây cho địch
nhiều tổn thất như Văn Tiến Dũng đã phải xác nhận trong tác phẩm Mùa
Xuân Đại Thắng.
Qua đến ngày 4 của cuộc chiến, Lữ đoàn I Dù gồm
các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù từ Miền Trung
về, được lệnh tăng cường cho Xuân Lộc. Tất cả các trực thăng của 2
Sư đoàn 3, 4 Không quân, gồm 100 trực thăng bán phản lực HUIB đã thả
hơn 2000 quân Dù từ Trảng Bom vào trận địa, các Pháo đội Dù cũng
được trực thăng Chinook chuyển vận đến Bộ chỉ huy Hành quân đóng kề
BTL Sư đoàn 18 BB. Hai Tiểu đoàn Dù đầu tiên đã nhảy xuống đầu địch
để chiếm lại Bảo Định trên quốc lộ 1, nơi 2 Trung đoàn thuộc Công
trường 6 đang tập trung tấn công BTL Sư đoàn 18 BB tại Tân Phong.
Một Tiểu đoàn Dù khác nhảy xuống chiếm lại vườn cây của cố Thống
Tướng Lê Văn Tỵ. Ngoài ra các Tiểu đoàn khác nhảy vào Xuân Lộc đẻ
giải vây cho các Tiểu đoàn ĐPQ và BCH Tiểu Khu Long Khánh.
Tại ngã ba Dầu Giây, Cộng quân cũng đồng loạt tấn
công Chiến đoàn 52 từ ngày 12-4 bằng biển người và tăng, pháo. Lần
lượt các tiền đồn, phòng tuyến của Trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về tới
ấp Phan Bội Châu trên quốc lộ 20 bị tràn ngập. Cuộc chiến trở nên ác
liệt đẩm máu đã xảy ra chiều ngày 15-4-75 ngay tại xã Dầu Giây, ngã
ba 2 quốc lộ 1 - 20, giữa Chiến đoàn 52 BB (gồm Trung đoàn 52, Lữ
đoàn 3 Thiết Kỵ, các lực lượng ĐPQ Kiệm Tân - Long Khánh, tổng cộng
khoảng 2000 người) và buộc Đoàn 4 Bắc việt trong đó có Sư đoàn Tổng
trừ bị của Hà nội 341 vừa từ Thanh Hóa vào, do Trần Văn Trà vừa thay
thế Hoàng Cầm chỉ huy, đã cho áp dụng chiến thuật biển người. Trong
trận chiến tàn bạo, khủng khiếp này, 1 người lính VNCH đã chọi với
10 lính CS Bắc việt với tăng và pháo. Chiến đoàn 52 đã tan hàng đêm
15-4, tất cả pháo binh, thiết giáp, người, đều bị hủy diệt sau 6
ngày đêm ác chiến, 9 giờ đêm đó, khi chiếc hầm chỉ huy của Chiến
đoàn bị bắn sập, Đại tá Chiến đoàn trưởng mới cho rút quân với vỏn
vẹn 200 người được sống sót.
III. 2 TRÁI BOM "DAISY CUTTER" TẠI MẶT TRẬN DẦU
GIÂY:
Trong cuộc phỏng vấn của nhà văn Phạm Huấn sau
ngày 30-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III đã
cho biết, sau khi trình Bộ TTM, ông đã ra lệnh cho Không quân sử
dụng 2 trái bom "DAISY CUTTER" tại ngã ba Dầu Giây trong đêm 15-4,
vào vùng tập trung quân của Bắc việt ngay khi Chiến đoàn 52 BB bị
tan hàng gần 10.000 quân Bắc việt cùng với chiến xa T54, đại pháo
đang di chuyển trên quốc lộ 20 vừa tới ngã ba Dầu Giây đã bị hủy
diệt.
Bom "DAISY CUTTER" còn được gọi là bom Con Heo
hay là bom tiểu nguyên tử, có chiều dài và chiều cao gần tương đương
với vận tải cơ Hercule C-130, trọng lượng là 7 tấn, vừa vỏ bọc, vừa
khối thuốc 15.000 cân Anh TNT. Bom Con Heo dùng để mở bãi đáp cho
cấp Sư đoàn hay lộ quân trong bất cứ địa thế nào và có hiệu quả sát
hại trong vùng với đường kính là 5 dặm Anh.
10 giờ sáng ngày 16-4, Không quân VN gọi về BTL
Quân đoàn III báo cáo về rừng người, chiến xa, đại pháo Bắc việt
đang tập trung trong xã Dầu Giây để chuẩn bị về Sàigòn. 11 giờ cùng
ngày, 2 vận tải cơ C 130 được lệnh mang 2 quả bom khổng lồ, xuất
phát từ phi đạo 39 tại phi trường Tân Sơn Nhất, thả xuống vùng tập
trung quân của CS, khiến cho đại quân của Hà Nội rối loạn trong 3
ngày liền và CS lại la làng rằng Mỹ đã vi phạm hiệp định Balê và B
52 đã trở lại Việt Nam.
Việc Mỹ viện trợ bom Con Heo cho VNCH cũng là
chuyện khôi hài cười ra nước mắt, vì chỉ cho bom mà không co đầu
đạn, cũng như bí mật được phanh phui sau ngày Miền Nam bị cưỡng
chiếm rằng: trong khoảng từ 3 giờ đến 3 giờ rưỡi sáng ngày 29-4-75,
3 chiếc C 130 của cơ quan DAO dùng để di tản người, không biết do
lệnh của ai, ở đâu, đồng loạt chở vào VN 3 trái bom BLV 82, Daisy
Cutter 15.000 cân Anh, rồi trong lúc các chuyên viên Mỹ, Việt đang
tháo gỡ đem vào kho an toàn thì phi công Mỹ lại vô tình hay cố ý
dùng điện thoại báo cáo để CS Bắc việt biết được, pháo kích vào địa
điểm đang bốc dỡ. Mỹ đã tháo chạy, Nam VN sắp mất, lại đem bom đến
Sàigòn làm gì, đó là bí ẩn mà các nhà quân sự Mỹ vẫn chưa chịu tiết
lộ, cũng như số phận của nhưng trái bom khổng lồ trên đang ở đâu,
cũng chẳng ai biết, ngoài Bắc bộ phủ.
IV. QLVNCH BỎ LONG KHÁNH:
Về việc rút bỏ Long Khánh trong khi các đơn vị
chiến đấu tại đây (ngoại trừ ngã ba Dầu Giây) vẫn còn giữ nguyên
được các vị trí, cũng có nhiều nguồn tin, theo những kẻ thân cận làm
việc trong Dinh Độc Lập, thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi được
tin Phan Rang thất thủ, các quân nhân tại đây uất ức trong cảnh gia
đình ly tán, đất nước lâm nguy nên bất tuân thượng lệnh, dùng xe ủi
đất và chiến xa M 113 San bằng mồ mả gia đình Tổng Thống, bởi vậy
quá đau đớn trước khi bỏ ngai vàng, ông đã cho rút khỏi Long Khánh
để Bắc việt mau vào Sàigòn thay thế ông, vì theo các thày tướng số
mà ông tin, thì nếu ông từ chức, Nam VN không ai có thể thay thế
được, trừ Cộng sản.
Nhưng theo lời Tướng Nguyễn Văn Toàn thì chính
ông quyết định rút bỏ Long Khánh vì thấy rằng phòng tuyến này không
còn được giữ lâu, hơn nữa Cộng quân sau khi bị thiệt hại nặng nề đã
cho thay đổi kế hoạch tấn công Sàigòn bằng chiến dịch 2 với 5 Sư
đoàn Biên Hòa, Phước Tuy đồng loạt với 3 Sư đoàn khác tại Tây Ninh.
Vì vậy Long Khánh không còn là điểm nóng, nên tất cả các lực lương
tham chiến tại đây phải rút lui về Biên Hòa để lập phòng tuyến mới.
Qua 12 ngày ác chiến đẩm máu, tuyến thép Xuân Lộc
vẫn đứng vững dù Phan Rang đã thất thủ 17-4, Phan Thiết mất đêm
18-4, Bình Tuy bỏ ngỏ, giờ đây Xuân Lộc là vùng giới tuyến của đất
nước. Tin thắng trận của Sư đoàn 18, Lữ đoàn 1 Dù, BĐQ, Thiết giáp,
ĐPQ, Lôi hổ và Không quân tới tấp bay về Sàigòn như những gáo nước
lạnh tạt vào mặt bọn nhà báo, nhà văn, ký giả, trí thức ngoại quốc
và VN, khiến chúng không có cách nào hơn để bóp méo sự thật, xuyên
tạc, nên cũng cúi đầu kính phục tinh thần bất khuất của người VN,
bởi vì đây là chiến thắng vĩ đại cuối cùng của QLVNCH trước khi bị
rã ngũ.
10 giờ sáng ngày 20-4-75, lệnh bỏ Long Khánh được
ban hành bởi Tư Lệnh Sư đoàn 18 BB, tất cả các lực lượng tại đây
dùng Liên tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Long, Long Giao về Phước Tuy
với 3 cánh quân Sư đoàn 18 BB, Tiểu khu Long Khánh và ĐPQ, Lữ đoàn 1
Dù và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù.
Trong cuộc lui quân này, Lữ đoàn 1 Dù bị thiệt
thòi và nguy hiểm nhất vì là đơn vị đoạn hậu, đang chống trả với
Cộng quân, 2 bên còn đang giao tranh ác liệt tại Bảo Định thì 7 giờ
tối 20-4 có lệnh rút quân, trong khi thương binh và tử thi lính chưa
được di tản. Nhưng tất cả đã phải bỏ lại như năm nào tại Hạ Lào, bởi
vì đối với người còn sống, đoạn đường xác người hơn 40 cây số trong
rừng cao su đen nghịt để ra quốc lộ 1, là các cửa địa ngục phải vượt
qua. Tất cảthảm trạng trên đều là những oan khiên bi thiết của người
lính VNCH.
9 giờ tối, các Tiểu đoàn Dù mới tới quốc lộ 1 và
một hoạt cảnh cảm động đã diễn ra, tất cả các con chiên của các xóm
đạo Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn hai bên vệ đường để
theo chân lính di tản. Thì ra người lính VNCH trong suốt cuộc chiến
20 năm trời đó, xác thực, luôn luôn là kẻ giữ nhà, giúp dân. Tình
quân dân thắm thiết chỉ được nhắc tới trong những lúc cùng khốn, cực
nguy. Cộng sản Hà Nội đã biết được cái ưu điểm này của người lính
Miền Nam, nên không ngớt quấy phá, xuyên tạc, đầu độc bằng cách cho
cán binh trà trộn giả làm lính VNCH trong những lúc rối loạn, chẳng
hạn như Tết Mậu Thân, Mùa Hè đỏ lửa 72, 55 ngày cuối cùng, để bêu
xấu bằng cách cướp của, hãm hiếp dân. Vịn vào đó, một số trí thức VN
viết trường thiên lịch sử tiểu thuyết kể tội lính... Cũng như gần
đây Dương Thu Hương và tạp chí Đại Trường, một người là văn sĩ bộ
đội Cộng sản, một kẻ là cựu sĩ quan biệt phái Miền Nam, cũng trở lại
đề tài cũ rích trong việc nói xấu kẻ ngã ngựa, những người bị thua
trận, nhưng càng lúc càng được nhiều người trong thế giới văn minh
cảm phục khi khám phá ra cái giá trị tinh thần xứng đáng của họ,
đúng như lời Trần Bạch Đằng đã viết trong Kiến thức Ngày nay số 138
phát hành ngáy 1-5-94: "Đối với dân tộc Việt Nam, chiến tranh là
điều bất đắc dĩ, xa xưa cũng như hiện tại, chỉ khi nào sự sinh tồn
của dân tộc, chủ quyền Quốc gia bị đe dọa, người Việt Nam mới cầm vũ
khí để tự vệ".
Mấy chục cây số đường rừng bị bỏ hoang trên Liên
tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Đức Thành, Long Lễ về Bà Rịa không phải
là chuyện bình thường của một đoàn quân có dân chúng lẫn lộn, bởi
vậy ngay trong đêm rút quân 20-4-75, Trung tá Lê Quang Định, Tiểu
khu phó Tiểu khu Long Khánh đã bị tử thương vì nhiều loạt B 40 của
Cộng quân trong khi đang di chuyển.
Lữ đoàn 1 Dù rút lui sau cùng, chỉ riêng Tiểu
đoàn 3 Pháo binh được di chuyển trên đường lộ với đại đội Trinh sát
Dù, các Tiểu đoàn tác chiến đều mở đường bọc sâu trong rừng.
4 giờ sáng ngày 21-4-75, tại ấp Quí Cả, gần ranh
giới Long Khánh - Phước Tuy, Tiểu đoàn 3 Dù và đại đội Trinh sát Dù
đã bị 2 Tiểu đoàn CS Bắc việt phục kích. Pháo đội C và Trung đội
Trinh sát bảo vệ, hầu hết bị thương vong trước biển người tấn công.
Cánh quân đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù cũng đụng độ nặng với CS tại
thung lũngGia-rai, dưới chân núi Cam Tiêm. Ngoài những thiệt hại kể
trên, cuộc rút quân tên Liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn toàn kết quả tốt
đẹp. Sư đoàn 18 BB được chỉ định về phòng thủ mặt Đông Thủ đô, từ
Tổng kho Long Bình đến kho đạn Thành Tuy Hạ, tiếp cận với các lực
lượng của Trường Bộ binh Thủ Đức. Trướng Thiết giáp và Lữ đoàn 1 Dù
có trách nhiệm bảo vệ quốc lộ 15, từ Long Thành về Bà Rịa. Tất cả
chiến đấu với giặc cho đến khi ông Dương Văn Minh ra lệnh bỏ súng,
tan hàng vào lúc 11 giờ 30 mới chấm dứt. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và
Bộ chỉ huy của SĐ18 BB đóng bản doanh sát căn cứ Hải Quân Cát Lái,
ngày ngày nhìn thấy thiên hạ bỏ chạy bằng tàu, thuyền, ông và các sĩ
quan, binh lính dưới quyền cũng có thể bỏ chạy dễ dàng, nhưng họ đã
ở lại, và sau ngày 1-5-75, cái giá máu mà Tướng Đảo đã phải trả là
sự đầy ải, hành hạ, chịu tủi nhục trong các trại tù từ Nam, Trung ra
đến tận biên giới Việt-Lào-Hoa, cho đến đầu thập niên 90, ông vẫn
còn bị Cộng sản hành hạ tại trại Z 30D, Long Khánh.
Cuộc chiến đã tàn phai theo năm tháng, nhưng đồng
bào trong nước vẫn không có tự do để thở, cơm áo để ăn mặc và tình
trạng đói rách càng ngày càng thê thảm. Thì ra:
"Đất nước điêu tàn,
giải phóng thành ra vô ích,
Đồng bào rách nát, lãnh
đạo quả thị bất nhân".
Ngày nay, ai có dịp được xuôi ngược trên những
miền quê hương lửa khói xa xưa, từ cổng Nam của thị trấn Hố Nai đến
Bầu Cá, Trảng Bom, Hưng Lộc, ngã ba Dầu Giây lên Cao nguyên, xuôi
Miền Trung v.v... không hiểu họ có còn nhớ chăng những ngày lao đao
lận đận của đất nước vào tháng 4-75. Cũng chính tại đây, người Miền
Nam VN trước sự lộng hành trơ trẽn, bất nhân, bất nghĩa, vô nhân đạo
của Cộng sản Miền Bắc, đã thực sự phẫn nộ nên đứng lên cùng họ tử
chiến lần cuối cùng trong 12 ngày. Trong khi tại Hà Nội, Đảng ngồi
đứng không yên, chờ tin thắng trận. Cùng thời gian đó, tại Sàigòn,
hàng hàng lớp lớp lãnh đạo, quan quyền, nhà giàu, kẻ có thế lực tiếp
nối di tản, thì tại các mặt trận khắp tỉnh Long Khánh, người Việt
trong 2 quân đội thù nghịch, ăn xương uống máu lẫn nhau. Họ từng
phút từng giây tắm dưới bom đạn, lội trên máu thịt con người, dành
nhau từng bức tường cháy, đống gạch vụn, mái nhà xiêu, đến các công
thự phòng thủ để giữ mạng. Tội nghiệp và thê thảm nhất vẫn là dân
chiến nạn Miền Nam. Chạy loạn từ các vùng bị giặc chiếm như Đà Lạt,
Di Linh, Định Quán, Kiệm Tân về, hoặc xa hơn là Phan Thiết, La Gi,
Võ Đắt, Tánh Linh. Tất cả cùng với dân chúng Long Khánh chịu chung
số phận của những con cá nằm giữa thớt, dao, bởi đạn bom vô tình từ
trên trời rớt xuống, khiến cho:
"Đống xương vô định đã cao bằng đầu..." bởi tử
thi của gần mười mấy ngàn người vừa dân vừa lính VNCH, bộ đội Cộng
sản Bắc việt. Bỗng dưng thấy u uất, ngậm ngùi khi vô tình được đọc
bài Lương Tây Hành của Trần Đào tiên sinh thời Hậu Hán:
"Thê tảo hung nô bất cố
thân
Ngũ thiên điều cẩm tăng
hồ cầm
Khả liên vô định hà
biên cốt
Do thị xuân khuê mộng
lý nhân".
Toàn bài cổ thi nói lên tâm trạng người chiến sĩ lúc ra đi, thề
quét sạch rợ hung nô, không tiếc đến thân mình. 5000 chiến sĩ mặc
chiến bào bằng da chim điêu đã vĩnh viễn chôn xác nơi đất Hồ Thương
thay nắm xương tàn của những người vì nước, nằm xuống bên cạnh con
sông Vô Định, nơi cực bắc tỉnh Cam Túc đã rã mục lâu rồi. Vậy mà họ
vẫn còn là người trong mộng của những thiếu phụ chốn phòng khuê.
Nhưng còn người lính Miền Nam thì sao? Thê thảm và bi thiết lắm, bởi
họ là kẻ bị bại trận, người sống thì vào tù, người bị thương thì ôm
hận với những ngày tàn lụi hẩm hiu và kẻ đã chết cũng chẳng được yên
mồ.
Cuối tháng 5-75, cố Tổng bí thư Lê Duẫn vào Sàigòn, ông tuyên bố:
"Chiến tranh chấm dứt, không có kẻ thắng người bại". Nhưng ông lại
không chịu nói tiếp rằng: "Chỉ có chúng tôi: Cấp lãnh đạo tối cao
Miền Bắc và chính quyền cũ Miền Nam (những người đã ra đi) là thắng
lợi vênh vang".
Hai mươi năm qua rồi, tóc xanh thành tóc bạc, bạn bè thân thương
một còn chín mất, lưu lạc khắp ngàn phương. Cái mộng mơ năm nào
được:
"Ngày mai rồi có ngày nào
Cười vui theo gót ai vào Thăng Long..."
(thơ của Vũ Tấn Hoan)
đã tan biến theo mây khói, giờ chỉ còn biết:
Nghiêng bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một Hồ Trường
Hồ Trường! Hồ Trường!
Ta biết rót về đâu?!
(thơ Nguyễn Bá Trạc)
HỒ ĐINH